Vòi nước phông-tên công cộng – Một thời ký ức của người Sài Gòn xưa - Hoài niệm xưa

   

Những người sống ở thập niên 1960 và trước đó chắc bây giờ cũng ngoài 80 tuổi cả rồi, không biết có ai còn nhớ những vòi nước phông – tên công cộng ngày trước, những vòi nước được lắp cố định trên những con đường phố Sài Gòn. Người người nối đuôi nhau xếp thành hàng dọc dài hay có khi là tranh nhau để được hứng từng thùng nước rồi gánh về dùng cho sinh hoạt hàng ngày. Có lẽ có chút lạc hậu và nghèo nàn nhưng đó lại là hình ảnh khá hiện đại nếu xem lại thời buổi mà dân chúng vẫn còn dùng nước giếng đào, không được sạch bởi nó chẳng cần qua cái công nghệ thanh lọc khử trùng nào cả. Ở thời điểm đó, nước máy công cộng là một khái niệm còn khá mới mẻ đối với các tầng lớp dân Việt, nó là một điều gì đó nghe có vẻ rất lạ nhưng cũng rất sạch sẽ. Thử nghĩ xem, sẽ khoái chí biết chừng nào nếu được đưa tay mà hứng từng ngụm nước trong lành và thanh mát, sau đó đưa chúng vào khoang miệng để dòng nước lành lạnh lại mát rượi ấy đi qua cổ họng trong lúc đứng xếp hàng chờ từng thùng nước đầy vào những chiều hôm. 

 

Để có được vài đôi thùng nước mang về nhà là nhiều người phải đi bộ vài cây số, thời đó xe đạp ít lắm nên người ta phải gánh bộ và đi quãng đường khá xa để len lỏi qua những con xóm nhỏ, đó là điều khó khăn cho nhiều người, đặc biệt là dân nghèo. Bởi người giàu hay người có tiền sẽ thuê người gánh nên họ chẳng cần tốn công, còn người nghèo thì đành “tự thân vận động”. Nói cơ cực là vậy, nhưng cũng thật lạ là chẳng bao giờ thấy có ai phàn nàn chính quyền vì điều này. Tỉ dụ như sao lại không chăm lo việc cấp nguồn nước máy cho dân trong xóm, vì những cột nước phông – tên công cộng chỉ được mở ở khu đường lớn và chỉ mở đường cho dân sống ở mặt tiền đường mà thôi. Nghe có chút thiên vị đúng không? Nhưng lại chẳng thấy ai đòi hỏi vì điều này cả? 

Thật chất thì điều này cũng khá là bình thường, đối với những dân nghèo thời đó họ chấp nhận được nên chẳng có gì phải ầm ĩ hay ồn ào đòi quyền lợi cả. Đơn giản vì đào đường ống trước nhà mặt tiền đường sẽ thuận lợi hơn nhiều so với các con xóm nhỏ ở vùng ngoại ô. Việc thi công hay chỉnh trang ở phần mặt tiền đường được coi là làm đẹp cho bộ mặt đô thị, mặt đẹp trước rồi thì chuyện sau lưng sẽ được tính toán sau. Không năm này làm thì năm sau đặt ống, mà lỡ không năm sau thì năm tới nữa cũng chưa muộn, từ từ rồi thì nhà nào mà chẳng được xài nước máy đúng không. 

 

Ở những năm của thập niên 1960, đã có nhà máy nước Thủ Đức, nó đã được xây dựng hoàn thành vào năm 1966. Và nhà nước này cung cấp đầy đủ nước cho các khu vực như Phú Nhuận, Gò Vấp, Quận 11 và cả Quận 6. Nhưng mãi đến năm 1966, mới có nhà nước máy vậy trước đó người dân Sài Thành dùng nước gì? Vả lại, đây chỉ là những vùng ven của thành phố, vậy người dân trung tâm mà lại không được xài nước máy à? Đương nhiên là có chứ! Nước máy đã có từ rất lâu rồi, trước cả năm 1966 rồi nhưng đã nói ở trên, nó chỉ được phục vụ cho những dân nào ở khu mặt tiền đường khu trung tâm thôi. 

Không biết có ai còn nhớ để cái thủy đài nước đầu tiên của Sài Gòn do Pháp xây dựng và khánh thành năm 1886 không? Đúng vậy! Nó nằm ở góc xéo của Công trường Quốc tế, tức là Hồ Con Rùa ngày nay đấy (ngày nay thì thủy đài cổ nhất Sài Gòn này nằm trong khuôn viên của Tổng công ty Cấp nước Sài Gòn – Sawaco ở Quận 3, Tp.HCM). Nước được bơm thủ công từ các giếng cạn gần đó lên bể chứa rồi phân ra phục vụ nhu cầu cho các công sở, nhà của các quan chức người Pháp hoặc thêm vào là một ít dân cư người Việt khá giả ở tại khu vực trung tâm của Sài Gòn. 

 
Thủy đài nước đầu tiên ở Sài Gòn, được xây dựng năm 1886 nằm ở góc xéo của Hồ Con Rùa ngày nay

Ngày trước, đa số người dân chỉ có thể dùng nước sông sau đó cho lóng phèn rồi mang đi sử dụng, nhiều nhà sẽ hứng nước trời (có nghĩa là chờ trời mưa rồi hứng nước để dự trữ và xài dần). Mãi đến nửa thế kỷ sau khi chính quyền Pháp cho xây dựng thủy đài nước rồi mới bắt đầu cho tiền hành xây lắp những phông – tên nước công cộng dọc theo những trục đường chính nhưng khá là rải rác để người dân có thể đến để lấy nước về sinh hoạt. Những phông – tên nước này được nối trực tiếp từ các giếng khoan do công ty Société Lanyne France et Cie tiến hành khảo sát rồi cho khoan thẳng vào những tầng nước ngầm sâu dưới lòng đất trên cả trăm mét. Cũng bắt đầu từ thời điểm đó mà người dân dần quen với việc sử dụng mạch nước ngầm trong sinh hoạt thông qua những phông – tên nước công cộng. Được biết đến càng nhiều đồng nghĩa với việc dân sử dụng cũng ngày một tăng cao nhưng số lượng giếng khoan đưa vào sử dụng chỉ là số lượng cố định, khoảng 30 cái, trong khi dân số Sài Gòn ở thời điểm thập niên 1930 phải lên đến hàng trăm ngàn con người. 

Nước sạch là tốt nhưng việc lấy nước từ những giếng khoan này khá mất sức, không chỉ phải dùng tay dồn sức mà kéo cần bơm nước lên xuống liên tục, vật vã một hồi nước mới trực trào lên chứ chẳng đùa, sau đó lại phải đứng đợi hứng nước rồi mới mang về được. Phông – tên được lắp chủ yếu là phục vụ cho người có tiền, nên làm gì họ chấp nhận đứng chờ hàng dài chỉ để lấy nước sinh hoạt, mà chỉ cần bỏ ra vài đồng đã có người làm thay họ rồi. Chỉ vài đồng rẻ bèo đã có được vài đôi gánh nước, nhẹ nhàng lại chẳng tốn công nhưng với dân nghèo thì đây là cơ hội kiếm sống. Nên từ đây cái nghề gánh nước thuê ra đời và bền khi kéo dài đến tận những năm của thập niên 1970 mới kết thúc. Bởi thời đó, dân di cư và nhập cư kéo về Sài Gòn sinh sống khá nhiều, khiến dân số chẳng mấy chốc đã tăng cao đến hơn hai triệu người, vượt cũng phải gấp 4 lần so với quy hoạch của thành phố. Từ năm 1874, Pháp đã đề ra một quy hoạch nhỏ, xây dựng một “Paris nhỏ ở Viễn Đông” khi bắt tay vào việc thành lập thành phố Sài Gòn, nhưng bất thành. Dân cư bùng nổ, nhu cầu tiêu dùng nước sinh hoạt ngày một cao, trở thành nhu cầu cấp bách nên buộc chính quyền phải mở đường nước máy, thiết lập hoàn chỉnh hệ thống cung cấp nước vào tận nhà cho mỗi người dân để đáp ứng nhu cầu dân sinh. 

 
Hình ảnh một cái phông – tên nước công cộng được bơm bằng tay ở thời 1931 trên đường phố Nguyễn Huệ để người dân hứng nước.

Dường như đâu đâu cũng có thể tìm được người gánh nước thuê, những khu xóm nhỏ, những con đường hẻm,….họ có thể là những người nhà quê mới lên Sài Gòn sinh sống, vẫn còn chân ướt chân ráo chưa lành đường xá, chưa tìm được công việc ổn định nên chọn đây làm nghề “đắp đổi qua ngày”. Họ cũng có thể là người “chuyên ngành” thạo việc và xem đây là nghề ổn định. Công việc này dường như là có quanh năm suốt tháng, nhưng có thể nhiều người muốn nhanh để còn được làm nhiều hơn kiếm thêm hơn nên mới có chuyện tranh giành hứng nước công cộng. Họ không ngừng cãi vã, tranh vị trí người trước kẻ sau, thậm chí còn nặng hơn là “nóng mặt” mà đánh nhau bằng đòn gánh giữa đường, ngay trụ nước phông – tên. 

Cuộc sống vất vả, nghề gánh nước thuê lại khó khăn và cực nhọc, phải giành chỗ để hứng nước rồi phải gánh nhanh về cho chủ thuê để còn kịp làm cái khác, nên tính khí của những người này có phần cộc cằn, dễ nổi nóng cũng là điều dễ hiểu. Miệng mồm lúc nào cũng um sùm xóm là vậy, có thể tranh giành với bất kỳ ai nhưng họ sẽ luôn ưu tiên cho những thằng nhóc ngơ ngác đứng chờ tới lượt. 

 

Rồi sau cùng, chính quyền cũng thực hiện chương trình hỗ trợ an sinh cho người dân, họ chi rất hào phóng bởi đó được trích ra từ Quỹ viện trợ Liên Hiệp Quốc. Người ghi tên sẽ được tặng cho vài ba bao xi măng, thêm vài tấn tôn fibro để xây dựng bể nước, lợp mái nhà để hứng nước mưa xài đỡ đợi công trình đào đường lắp hệ thống nước thi công. Thời đó, như cầu dùng nước sạch đối với bà con là rất cần thiết, nhưng ngành y tế lại cứ tuyên truyền và cổ động người dân “ăn chín uống sôi”, “ăn sạch uống sạch”, nước giếng nên được nấu chín trước khi dùng, còn nước hứng từ mái nhà fibro thì hạn chế dùng. Thế là bà con kháo nhau nhận được xi măng với tôn thì đem bán hết cho mấy chủ thầu xây dựng để lấy tiền xài. Sau khi hệ thống cấp nước được xây dựng hoàn thiện, mỗi hộ dân đều có nước sạch để dùng thì mấy cái phông – tên công cộng cũng không còn cần đến, nghề gánh nước cung theo đó mà tàn lụi. 

Tuyến đường lắp ống nước cái đang được tiến hành thi công ở khu trung tâm thành phố Sài Gòn năm 1966

Còn nhớ, trên đường Tô Hiến Thành, khúc gần nhà thờ Thánh Tâm, có một con hẻm nhỏ, đầu hẻm được lắp một phông – tên nước máy công cộng. Nhiều đứa bé sau giờ học sẽ chạy ra đó để mà hứng từng ngụm nước mát uống ngon lành. Nhiều người cũng tranh ra đây mà hứng vài đôi nước để đổ đầy lu khạp để dành nhà nấu ăn, dù trong nhà lúc nào cũng có vài khạp nước mưa hứng để dành. 

 

Hễ nhà ai cần nước thì sẽ bỏ tiền ra thuê người ra đứng chờ ở mấy cái phông – tên nước để hứng rồi chờ về. Nghề này ai nói nhẹ thì là “dối”, bởi nó được xem là khá nhọc nhằn, vốn luyến duy nhất họ có được chính là sức lao động. Mỗi ngày, người gánh thuê phải gánh xệ vai vài chục đôi nước có chẳng phải là một hai đôi, nhưng vậy lại chỉ kiếm được vài chục đồng bạc mà thôi. 

Dù phông – tên nước là nơi để lấy nước sinh hoạt nhưng nhiều người vẫn có thể mang đồ ra đây giặt giũ như sân nhà mình, đó cũng được coi là “chuyện thường chợ huyện” ở Sài Gòn vào những năm 1960.

Theo như một số tài liệu lịch sử ghi lại thì chính nhờ nguồn viện trợ của Mỹ mà chính phủ mới thiết kế và xây dựng các thủy đài ở chung quanh thành phố. Nhờ đó mà có thể điều chỉnh được lưu lượng nước chảy đến những đường ống của khu vực dân cư xa sau khi nhà máy nước ở Thủ Đức được hoàn thành. 

 
Tháp điều áp nước ở nhà máy nước Thủ Đức được chụp vào năm 1969 do người Mỹ – George Lane
Người dân tụ tập và xếp hàng ở vòi nước máy phông – tên để chờ tới lượt
Điển hình của một vòi nước phông – tên công cộng trên đường phố Sài Gòn
Một trong những vòi được được lắp đặt ở khu Chợ Lớn
Vòi nước là nơi hứng nước sinh hoạt, nhưng bà mẹ lại ngang nhiên mang con ra tắm tại đây như một chuyện bình thường